Hình sự

Những điều cần biết về phạm tội chưa đạt?

Ngày đăng: 10-04-2023 11:31:41

1. Phạm tội chưa đạt là gì?

Điều 15 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xác định:

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

2. Các dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt.

* Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã thực hiện tội phạm”. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. “Đã thực hiện tội phạm” có nghĩa: Người phạm tội đã thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm.

Ví dụ: Chủ thể tội giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 123 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cũng được coi là “đã thực hiện tội phạm” nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi “đi liền trước” hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Đó là hành vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm và kế tiếp ngay sau nó hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm sẽ xảy ra.

Ví dụ: Hành vi nhặt dao để đâm, lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là những hành vi “đi liền trước” của hành vi tước đoạt tính mạng người khác. Những hành vi này chưa phải là hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng là sự bắt đầu của hành vi tước đoạt tính mạng người khác và ngay sau nó hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Hành vi “đi liền trước” như vậy tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm.

* Dấu hiệu thứ hai: Đây là dấu hiệu được diễn đạt khác nhau giữa điều luật và định nghĩa khoa học. Theo điều luật, phạm tội chưa đạt khác tội phạm hoàn thành ở chỗ người phạm tội không thực hiện tội phạm được “đến cùng”. Trong khi đó, theo định nghĩa khoa học, phạm tội chưa đạt khác tội phạm hoàn thành ở chỗ hành vi phạm tội chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Đây chỉ là hai cách diễn đạt khác nhau về cùng một nội dung. Tội phạm hoàn thành hay phạm tội chưa đạt như đã trình bày đều là sự đánh giá về mặt pháp lí. Do vậy, dấu hiệu “không thực hiện tội phạm được đến cùng” được quy định tại Điều 15 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cần được hiểu là “không... đến cùng” về mặt pháp lí và như vậy “không... đến cùng” cũng có nghĩa là hành vi được thực hiện chưa thoả mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Trường hợp hành vi phạm tội chưa thoả mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm có thể xảy ra theo các dạng sau:

- Chủ thể chưa thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà mới chỉ thực hiện hành vi “đi liền trước" hành vi đó.

Ví dụ: Chủ thể tội giết người mới nhặt dao để đâm thì đã bị bắt giữ;

- Chủ thể đã thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng chưa thực hiện hết.

Ví dụ: Chủ thể tội hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện hành vi giao cấu thì đã bị bắt giữ;

- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng chưa gây ra hậu quả thiệt hại được mô tả trong cấu thành tội phạm.

Ví dụ: Chủ thể tội giết người đã đâm nạn nhân nhưng nạn nhân không chết;

Trong ba dạng có thể xảy ra nêu trên, dạng thứ ba chỉ có thể xảy ra ở các tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất.

* Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được “đến cùng” là do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ.

Dấu hiệu này được đặt ra vì có hai loại trường hợp hành vi phạm tội đã thực hiện nhưng không “đến cùng” - không thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là trường hợp do nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội và trường họp do ý muốn chủ quan của người phạm tội. Hai trường hợp này là khác nhau. Trong đó, trường họp thứ hai là trường hợp cần được khuyến khích.

Theo điều luật, dấu hiệu thứ ba đòi hỏi người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:

- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh được;

- Người khác đã ngăn chặn được;

- Có những trở ngại khác (như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc dùng để đầu độc không đủ liều lượng...);

Dấu hiệu thứ ba trên đây cho phép phân biệt phạm tội chưa đạt với trường hợp dừng lại do ý muốn chủ quan của người phạm tội được quy định tại Điều 16 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quy định về phạm tội chưa đạt tại Điều 15 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là quy định có tính nguyên tắc cho tất cả các tội danh. Do vậy, để xác định trường hợp phạm tội chưa đạt của tội danh cụ thể cần phải kết hợp quy định này với nội dung quy định trong cấu thành tội phạm của tội danh này.

3. Quyết định hình phạt khi phạm tội chưa đạt

Điều 57 Bộ luật Hình sự quy định về việc quyết định hình phạt với hành vi phạm tội chưa đạt như sau:

- Hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

- Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.

4. Trường hợp người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt:

Theo khoản 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự, mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt là không quá 1/3 mức hình phạt cao nhất. Trong đó:

+ Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định (theo khoản 1 Điều 100).

+ Nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định (theo khoản 2 Điều 101).

5.Trách nhiệm hình sự

Tất cả các trường hợp đều phải chịu trách nhiệm hình sự không phân biệt loại tội nào

Tuy nhiên họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ chưa đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.

+ Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

+ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

Trên đây là phần ý kiến của Công  ty Luật TNHH MTV THÀNH & Luật sư về Những điều cần biết về phạm tội chưa đạt? Bạn đọc cần tư vấn kỹ hơn về vấn đề này vui lòng đến trực tiếp công ty tại địa chỉ: 106 Tên Lửa, Phường Bình Trị Đông B, Quận Bình Tân, TP. HCM hoặc liên hệ hotline: 0914 307 992 – 0564 992 992 để được tư vấn đầy đủ, kịp thời và chính xác nhất.

Trân trọng & cảm ơn!

Bài viết liên quan

Copyright © 2022 - thanhluatsu.com Bản quyền thuộc về Thành Luật sư
0914 307 992