Hình sự

Sự phát triển quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội ‘Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp’

Ngày đăng: 27-12-2025 08:08:40

Bài viết tập trung phân tích sự phát triển của các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) qua các giai đoạn lập pháp khác nhau. Trên cơ sở khái quát khái niệm tội "Xâm phạm quyền SHCN", bài viết làm rõ quá trình hình thành và hoàn thiện các quy định hình sự từ Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 và các lần sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là những thay đổi quan trọng trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Thông qua việc phân tích sự thu hẹp phạm vi đối tượng được bảo vệ bằng biện pháp hình sự, sự chuyển dịch từ các dấu hiệu định tính sang định lượng, cũng như việc lần đầu tiên ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, bài viết chỉ ra những bước tiến đáng kể trong tư duy lập pháp hình sự của Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nội luật hóa các cam kết quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, bài viết đánh giá tính ổn định của quy định về tội “Xâm phạm quyền SHCN” trong BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2025, từ đó khẳng định khuôn khổ pháp lý hiện hành đã cơ bản phù hợp, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền SHCN trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

1. Đặt vấn đề

Kinh tế xã hội ngày càng phát triển kéo theo những biến đổi thị trường, xuất hiện những diễn biến phức tạp của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHCN. Số lượng vi phạm pháp luật về bảo hộ xâm phạm quyền SHCN ngày càng tăng đã khiến cho hoạt động quản lí nhà nước gặp không ít khó khăn, đồng thời cũng làm cho các chủ sở hữu chịu những thiệt hại nghiêm trọng về quyền lợi. Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong đó có văn bản pháp luật hình sự về bảo hộ quyền SHCN là hết sức cần thiết.

Pháp luật hình sự Việt Nam đã từng bước ghi nhận và hoàn thiện các quy định nhằm xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN với tư cách là tội phạm. Từ chỗ chưa có quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hình sự trước đây, đến việc từng bước hình sự hóa hành vi xâm phạm quyền SHCN trong BLHS năm 1999 và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), các quy định này đã phản ánh rõ nét sự thay đổi trong tư duy lập pháp, cũng như yêu cầu nội luật hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu "Sự phát triển quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội 'Xâm phạm quyền SHCN'" có ý nghĩa quan trọng, không chỉ góp phần làm rõ quá trình hình thành và hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự liên quan, mà còn giúp đánh giá tính phù hợp của pháp luật hiện hành, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền SHCN trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Khái niệm tội “Xâm phạm quyền SHCN”

Hiện nay, các công trình nghiên cứu về tội “Xâm phạm quyền SHCN” không nhiều, do đó định nghĩa về khái niệm tội “Xâm phạm quyền SHCN” cũng chưa được nhiều tác giả đề cập. Theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Nga, tội “Xâm phạm quyền SHCN” được định nghĩa: “là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm phạm quyền sở hữu của các cá nhân, pháp nhân đối với nhãn hiệu hàng hóa và chỉ dẫn địa lý được Nhà nước bảo hộ”. Định nghĩa trên về cơ bản đã đưa ra những dấu hiệu nhận biết về tội “Xâm phạm quyền SHCN”, phản ánh được bản chất của tội phạm là xâm phạm quyền SHCN của chủ SHCN.

Tương tự như vậy, bài viết “Pháp luật hình sự Việt Nam với việc việc bảo vệ quyền SHCN” của Tiến sĩ Đào Lệ Thu trong Hội thảo “Sở hữu trí tuệ - những nội dung cơ bản cần giảng dạy trong trường đại học Luật Hà Nội” cũng đã đưa ra định nghĩa:“Các tội xâm phạm trong lĩnh vực SHCN là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm nghiêm trọng trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực SHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu”. Định nghĩa này đã đưa ra một cách đầy đủ về những dấu hiệu nhận biết tội phạm quyền SHCN.    

Hai tác giả trên đưa ra định nghĩa về khái niệm “tội “Xâm phạm quyền SHCN”” dựa trên những quy định của BLHS năm 1999. Hiện nay, BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2025 có nhiều thay đổi, đặc biệt tội “Xâm phạm quyền SHCN” cũng có nhiều quy định mới. Theo Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2022 đối tượng của quyền SHCN gồm: “sáng chế, kiểu dáng công nghiệp thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”. Tuy nhiên BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2025 chỉ quy định “nhãn hiệu”, “chỉ dẫn địa lý” là hai đối tượng được nhà nước bảo vệ bằng biện pháp hình sự. Cụ thể, chỉ xử lý về hình sự hành vi cố ý xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại; trường hợp vi phạm chưa thuộc phạm vi "quy mô thương mại" thì áp dụng các biện pháp dân sự, hành chính để xử lý. Như vậy, các hành vi phạm tội “Xâm phạm quyền SHCN” đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp hoặc các đối tượng SHCN khác (ngoài nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý) đã được phi hình sự hoá để xử lý bằng các biện pháp khác. Sở dĩ “nhãn hiệu” và “chỉ dẫn địa lý” là đối tượng của quyền SHCN được quy định trong luật hình sự bởi dựa trên tình hình kinh tế ở Việt Nam, việc đăng ký nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý ngày càng phát triển mạnh, tình hình vi phạm về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý xảy ra nhiều gây ảnh hưởng nghiêm trọng, thiệt hại tới các chủ sở hữu, các doanh nghiệp và cả người tiêu dùng.

Từ nghiên cứu những quy định hiện hành của pháp luật hình sự Việt Nam, căn cứ theo khoản 1 Điều 8 của BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2025 quy định về khái niệm tội phạm:“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự".

Theo Điều 226 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2025 quy định về tội “Xâm phạm quyền SHCN” như sau: “1. Người nào cố ý xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ Sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. Ta thấy chủ thể của tội “Xâm phạm quyền SHCN” là người có năng lực TNHS thực hiện hành vi vi phạm với lỗi cố ý với đối tượng của quyền SHCN là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại để lại hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho chủ sở hữu.

Từ những quy định trên, tác giả có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm tội “Xâm phạm quyền SHCN” như sau:

Tội “Xâm phạm quyền SHCN” là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý xâm phạm nghiêm trọng nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ SHCN”.

Đối với khái niệm này, tác giả đã đưa ra được đầy đủ những dấu hiệu nhận biết của tội “Xâm phạm quyền SHCN”, chủ thể, đối tượng cũng như nêu lên được bản chất của tội phạm là xâm phạm quyền SHCN của chủ SHCN.

3. Sự phát triển quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội “Xâm phạm quyền SHCN”

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều việc phải làm để ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng đất nước. Thời kỳ này quyền SHTT vẫn chưa nhận được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Các quy định pháp luật về bảo hộ quyền SHTT ở nước ta bắt đầu được ban hành từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và từng bước hoàn thiện theo thời gian. Mở đầu cho những hoạt động lập pháp hình sự có ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền SHCN là việc xây dựng điều luật quy định về các tội phạm liên quan đến quyền SHCN tại Pháp lệnh số 7-LCT/HĐNN của Hội đồng Nhà nước ngày 10/7/1982 về trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép; tại chương VII “Các tội phạm về kinh tế” của BLHS năm 1985. Đó là Điều 167 BLHS quy định tội làm hàng giả và tội buôn bán hàng giả. Như vậy, ngay từ khi ban hành BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1985, nhà nước đã chủ trương coi quyền SHCN là một trong những khách thể bảo vệ của luật hình sự.

Trong giai đoạn Việt Nam nỗ lực để đàm pháp gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hàng loạt các văn bản pháp luật quốc gia đã được sửa đổi bổ sung quy định mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Các văn bản pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN giai đoạn này bao gồm: Nghị định số 63/CP của Chính phủ ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về quyền SHCN, BLHS năm 1999, chỉ thị số 31/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả và Thông tư liên tịch số 10/2000 /TLLT-TM-TC-CA-KHCNMT ngày 27/04/2000 nhằm hướng dẫn chỉ thị số 31/1999/CT-TTg (Thông tư liên tịch số 10).

Kinh tế xã hội ngày càng phát triển kéo theo những biến đổi thị trường, xuất hiện những diễn biến phức tạp của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHCN. Số lượng vi phạm pháp luật về bảo hộ xâm phạm quyền SHCN ngày càng tăng đã khiến cho hoạt động quản lí nhà nước gặp không ít khó khăn, đồng thời cũng làm cho các chủ sở hữu chịu những thiệt hại nghiêm trọng về quyền lợi. Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong đó có văn bản pháp luật hình sự về bảo hộ quyền SHCN là hết sức cần thiết. Với tinh thần này, BLHS năm 1999 quy định các tội: Buôn bán hàng giả (Điều 156); tội buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội "Buôn bán hàng giả" là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158); tội "Vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN" (Điều 170); tội “Xâm phạm quyền SHCN” (Điều 171). Những quy định này đã thể hiện sự phát triển về hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường, đó sự phản ánh kịp thời những đòi hỏi mới của tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Tội “Xâm phạm quyền SHCN” không phải là tội mới được quy định tại Điều 171 BLHS năm 1999. Bởi trong BLHS năm 1985 Điều 167 quy định tội làm hàng giả và tội buôn bán hàng giả từng phản ánh một dạng hành vi của tội “Xâm phạm quyền SHCN”. Theo Tiến sĩ Đào Lệ Thu, tội “Xâm phạm quyền SHCN” (Điều 171 BLHS năm 1999) mới về mặt tên gọi song không phải là tội mới. Ngoài ra tác giả còn nhận định hành vi phạm tội không chỉ xâm phạm chế độ quản lí nhà nước về bảo hộ quyền SHCN mà còn trực tiếp gây thiệt hại cho các chủ sở hữu hợp pháp của các đối tượng quyền SHCN. Đối tượng quyền SHCN này là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi, xuất xứ hàng hóa đang được bảo hộ hợp pháp tại Việt Nam. Đây là các sản phẩm trí tuệ của con người, nó đem lại nhiều lợi ích vật chất cho chủ sở hữu nói riêng và xã hội nói chung khi nó được ứng dụng vào thực tiễn. Như vậy, khi hành vi phạm tội được thực hiện thì cần hiểu rằng hành vi đó tác động lên kết quả của sự sáng tạo, lên các dạng tồn tại mang tính vật chất của các đối tuợng quyền SHCN đang được bảo hộ. Điều 171 BLHS năm 1999 quy định hai loại hành vi khách quan của tội phạm là chiếm đoạt hoặc sử dụng bất hợp pháp các đối tượng SHCN đang được bảo hộ tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như gần mười lăm năm áp dụng BLHS năm 1999 vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội “Xâm phạm quyền SHCN” cho thấy những quy định về tội phạm này đã bộc lộ những bất cập nhất định như: một số dấu hiệu chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc xác định hành vi phạm tội, điều kiện để xử lý hình sự đối với một số hành vi xâm phạm SHCN còn quá phức tạp, trong khi đó những quy định giữa pháp luật hành chính và pháp luật hình sự còn chưa thống nhất… Do vậy, khả năng áp dụng BLHS năm 1999 và hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội “Xâm phạm quyền SHCN” chưa cao. Trước tình hình đó, ngày 19/6/2009 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 số 37/2009/QH12 theo hướng quy định đơn giản hơn về dấu hiệu của tội “Xâm phạm quyền SHCN”, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHCN.

Điều luật trong BLHS năm 1999 có quy định phạm vi đối tượng quyền SHCN rất rộng như sau: “Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm…”.

Tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009, Điều 171 về tội “Xâm phạm quyền SHCN” quy định: “Người nào cố ý xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại…”. Như vậy, so với BLHS 1999, Luật sửa đổi năm 2009 đã thu hẹp rất nhiều phạm vi đối tượng quyền SHCN có thể bị xâm hại bởi hành vi vi phạm – tội phạm; chỉ còn duy nhất hai đối tượng là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ bằng biện pháp hình sự. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã thay cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng một khái niệm mới “với quy mô thương mại”. Với thay đổi này, thực tế đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật bởi không có sự giải thích chính thức hoặc hướng dẫn áp dụng như thế nào thì được coi là “với quy mô thương mại”. Hầu như rất ít vụ việc vi phạm quyền SHTT được đưa ra khởi tố, truy tố và xét xử do vướng phải quy định chung chung mang tính định tính này.

Tuy nhiên như một quy luật, khi quá trình toàn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu của thời đại thì vấn đề bảo hộ quyền SHCN bằng pháp luật hình sự cũng phải ăn nhập với pháp luật chuyên ngành và phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Có nghĩa là yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 lại được đặt ra. Do đó, đồng thời với việc biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, ngày 16/9/2009, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã biểu quyết thông qua BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 trong đó có những sửa đổi đáng kể liên quan đến nội dung của tội “Xâm phạm quyền SHCN”.

BLHS 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã khắc phục hạn chế của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 bằng quy định mới mang tính định lượng rõ ràng hơn và lần đầu tiên “pháp nhân thương mại” được đưa vào pháp luật hình sự Việt Nam với tư cách là chủ thể chịu TNHS.

Điều kiện áp dụng Điều 171 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 là quy mô thương mại; Điều 226 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định điều kiện áp dụng bao gồm một trong các điều kiện: Quy mô thương mại; thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng; gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100 triệu đến dưới 500 triệu; hàng hóa vi phạm có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.

Chủ thể thực hiện tội phạm và chịu TNHS theo Điều 171 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 chỉ là cá nhân; Điều 226 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định chủ thể chịu TNHS gồm cá nhân và pháp nhân. Pháp nhân chịu TNHS có thể bị phạt đến 05 tỉ; đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực hoặc cấm huy động vốn từ 01 đến 03 năm.

Có thể nhận thấy, điều kiện áp dụng để xử lý đối với các hành vi thực hiện hai tội danh nêu trên đã mở rộng rất nhiều. Trước đây, điều kiện áp dụng phải là “quy mô thương mại”. Tuy nhiên, không có văn bản nào hướng dẫn để định lượng, định nghĩa thế nào là quy mô thương mại. Trong các hiệp định song phương và đa phương về sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư mà Việt Nam ký kết và tham gia cũng không có quy định cụ thể định lượng “quy mô thương mại”. Điều này dẫn đến việc khó khăn trong việc xử lý hình sự các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã gia tăng các điều kiện áp dụng, ngoài điều kiện về “quy mô thương mại” còn có các điều kiện khác như “thu lợi bất chính”, “gây thiệt hại cho chủ thể quyền”, “giá trị hàng hóa vi phạm”. Các điều kiện này đều được định lượng cụ thể. Vì vậy, sẽ dễ dàng hơn trong việc áp dụng xử lý các hành vi vi phạm hình sự đối với các tội “Xâm phạm quyền SHCN”. Việc này sẽ góp phần thực hiện tốt các cam kết mà Việt Nam đã cam kết trong các Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVNFTA)… các hiệp định có yêu cầu rất cao về bảo vệ quyền SHTT và trừng trị các hành vi xâm phạm quyền SHTT.

Ngoài ra, với việc pháp nhân chịu TNHS về tội “Xâm phạm quyền SHCN” bị áp dụng các chế tài nghiêm khắc và đa dạng cũng góp phần làm nâng cao nhận thức về các tội này, dễ xử lý hơn, từ đó, các quyền của các chủ thể quyền được tôn trọng và thực thi. Ví dụ, trước đây các doanh nghiệp bán máy tính thường “khuyến mại” thêm các phần mềm vi phạm bản quyền (phần mềm sao chép lậu, bẻ khóa…) và chỉ bị xử phạt hành chính thì hiện nay họ có thể phải chịu TNHS về hành vi đó dựa vào giá trị hàng hóa vi phạm.

Có thể nhận thấy rằng BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã tạo dựng một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ và khả thi đối với việc xử lý hình sự các hành vi xâm phạm quyền SHCN. Trong lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2025, mặc dù có nhiều điều luật được điều chỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hoàn thiện chính sách hình sự, nhưng quy định tại Điều 226 về tội “Xâm phạm quyền SHCN” không có sự thay đổi về nội dung. Việc giữ nguyên quy định này cho thấy quan điểm lập pháp của Nhà nước trong việc đánh giá Điều 226 hiện hành đã cơ bản phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền SHCN, đồng thời đáp ứng các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này cũng phản ánh xu hướng chuyển từ việc tiếp tục sửa đổi quy phạm sang tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn, đặc biệt là thông qua hoạtđộng điều tra, truy tố, xét xử.

4. Kết luận

Tội “Xâm phạm quyền SHCN” được ra đời trên cơ sở thực hiện các điều ước quốc tế. Sửa đổi qua nhiều lần, đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã khắc phục những hạn chế của các quy định trước đây thông qua việc định lượng hóa các điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự và lần đầu tiên ghi nhận pháp nhân thương mại là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội “Xâm phạm quyền SHCN”. Việc tiếp tục giữ nguyên quy định tại Điều 226 trong lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2025 cho thấy sự ổn định trong chính sách hình sự và khẳng định tính phù hợp cơ bản của quy định này trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, để các quy định của pháp luật hình sự về tội “Xâm phạm quyền SHCN” phát huy hiệu quả trên thực tế, cần tiếp tục chú trọng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, hoàn thiện cơ chế hướng dẫn áp dụng thống nhất và tăng cường vai trò của các chủ thể tham gia tố tụng. Đây là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm quyền SHCN được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

Nguồn Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

Bạn đọc cần tư vấn về các vấn đề liên quan và tìm kiếm Luật sư giỏi vui lòng đến trực tiếp Công ty Luật TNHH THÀNH & LUẬT SƯ tại địa chỉ: 106 Tên Lửa, phường An Lạc, TP. HCM hoặc liên hệ hotline: 0914 307 992 – 0564 992 992 để được tư vấn đầy đủ, kịp thời và chính xác nhất. 

Trân trọng !

Bài viết liên quan

Copyright © 2022 - thanhluatsu.com Bản quyền thuộc về Thành Luật sư
0914 307 992