Nhiều người khi ly hôn vì muốn làm nhanh, gọn nên không yêu cầu Tòa án chia tài sản mà tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, sau đó lại phát sinh tranh chấp. Vậy sau khi ly hôn rồi thì thủ tục chia tài sản như thế nào?
Tranh chấp tài sản sau ly hôn là việc tranh chấp các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng mà tại thời điểm khi ly hôn không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đó thường là các tranh chấp chia tài sản là bất động sản.
Trong trường hợp nếu đã áp dụng nhiều biện pháp để thỏa thuận như thương lượng, hòa giải giữa hai vợ chồng mà tài sản chung của vợ chồng vẫn không phân chia được thì một trong hai bên có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp tài sản sau ly hôn.
a/ Hồ sơ khởi kiện
Khi thực hiện việc khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn cần chuẩn bị hồ sơ bao gồm:
ĐƠN KHỞI KIỆN yêu cầu chia tài sản chung sau ly hôn;
Các tài liệu chứng cứ kèm theo:
Chứng minh nhân dân, căn cước công dân, hoặc các giấy tờ tùy thân khác;
Sổ hộ khẩu;
Bản án hoặc quyết định của Tòa án về việc đã ly hôn;
Giấy tờ chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng;
b/ Trình tự thủ tục
Nộp hồ sơ đã chuẩn bị đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết;
Tòa án nơi nhận đơn sẽ tiến hành nhận đơn và thực hiện các thủ tục cần thiết để giải quyết vụ án;
Tòa án xét xử sơ thẩm giải quyết vụ án
Xét xử phúc thẩm (nếu có)
Đối với những tài sản mà một bên cho rằng đó là tài sản riêng của bên nào thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Như vậy đối với những tranh chấp trong đó có việc xác định tài sản riêng của vợ/chồng thì vợ/chồng cần phải đưa các chứng cứ chứng minh rằng tài sản đó thuộc sở hữu riêng hợp pháp của mình, nếu không chứng minh được thì đương nhiên đó là tài sản chung và chia theo nguyên tắc chung.
Tranh chấp tài sản chung sau ly hôn gồm có:
– Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung, tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
– Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn, trừ các tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc tài sản phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản vợ, chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Tranh chấp tài sản chung sau ly hôn của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố khác như:
– Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
– Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung.
– Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
– Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
– Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Việc tranh chấp tài sản sau ly hôn của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Đối với các cặp vợ, chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận, nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản được xác định dựa vào sự thỏa thuận của hai bên thể hiện trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ, chồng. Chỉ trong trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận về nghĩa vụ tài sản hoặc thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng dẫn đến không thực hiện được trên thực tế thì khi đó nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng về tài sản lại được thực hiện theo các quy định tương ứng trong chế độ tài sản theo luật định.
Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn sẽ tồn tại những loại tranh chấp trên. Tuy nhiên, trên thực tế, đa phần đều là những tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
“Điều 28. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn”.
thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là những tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Đối với những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thì sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Mặt khác, căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;”
và căn cứ tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.”
Theo đó, đối với tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, cụ thể là Tòa án nơi bị đơn cư trú (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). Có nghĩa rằng, nếu vợ (nguyên đơn) nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản sau khi ly hôn thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi chồng cư trú (bị đơn) và ngược lại.
Trên đây là phần ý kiến của Công ty Luật TNHH THÀNH & Luật sư về Không chia tài sản lúc ly hôn sau đó có đòi chia được không, bạn đọc cần tư vấn kỹ hơn về vấn đề này vui lòng đến trực tiếp công ty tại địa chỉ: 106 Tên Lửa, Phường Bình Trị Đông B, Quận Bình Tân, TP. HCM hoặc liên hệ hotline: 0914 307 992 – 0564 992 992 để được tư vấn đầy đủ, kịp thời và chính xác nhất.
Trân trọng & cảm ơn!